Không thể xuyên tạc chính sách đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc của Việt Nam
Không thể xuyên tạc chính sách đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc của Việt Nam
Quốc An
Thực hiện mục tiêu, chính sách nhất quán, xuyên suốt cho con người, vì con người, Đảng và Nhà nước và Nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Đông đảo dư luận quốc tế ghi nhận, đánh giá cao những tiến bộ mà Việt Nam đạt được. Thế nhưng, các thế lực thù địch, với những mục tiêu và ý đồ chính trị riêng, đã và đang tìm mọi cách xuyên tạc, vu cáo Việt Nam về các vấn đề nhân quyền, trong đó có quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
Các thế lực thù địch tập trung xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân tộc. Chúng cho rằng dưới chế độ tập trung dân chủ thì không có bình đẳng dân tộc; muốn có dân chủ, bình đẳng thì phải đa đảng, đa nguyên; muốn bảo đảm quyền bình đẳng thì từng dân tộc phải ly khai;…
Đặc biệt chúng triệt để lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm của ta trong thực hiện chính sách dân tộc để kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, ly khai, gây mâu thuẫn, chia rẽ đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) với chính quyền, giữa dân tộc này với dân tộc khác hòng làm suy giảm sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, sâu xa là tạo cớ can thiệp. Một số đối tượng lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá chế độ bị các cơ quan chức năng xử lý là đúng pháp luật Việt Nam và công ước quốc tế. Thế nhưng các thế lực thù địch lại vu cáo rằng Việt Nam “bắt bớ”, “đàn áp”, “cưỡng bức”… dân tộc.
Chúng tập trung phá hoại các cơ sở kinh tế – xã hội (KT-XH) làm cho đời sống của đồng bào DTTS thêm khó khăn rồi đổ lỗi do chính quyền. Đồng bào DTTS chủ yếu cư trú ở địa bàn miền núi, khí hậu khắc nghiệt, đi lại gặp nhiều khó khăn, lao động sản xuất và sinh hoạt, nên có sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Chúng đăng phát những hình ảnh cũ về cuộc sống mưu sinh của DTTS rồi bình luận, xuyên tạc rằng Nhà nước Việt Nam “vô cảm” với cuộc sống của đồng bào. Lợi dụng lúc đồng bào DTTS gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh chúng mua chuộc, lôi kéo, ép buộc đồng bào DTTS tham gia phản đối chính quyền, vượt biên trái phép, gây mất ổn định chính trị, xã hội, bạo loạn, tạo các điểm nóng để vu khống Việt Nam “đàn áp” các dân tộc vi phạm dân chủ, nhân quyền hòng cô lập, làm giảm sút uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Chúng tìm cách móc nối để xây dựng, nuôi dưỡng các tổ chức phản động người Việt ở cả trong và ngoài nước; tập hợp, tài trợ, giật dây chỉ đạo lực lượng cơ hội chính trị trong các dân tộc hoạt động chống phá Việt Nam….
Nhưng sự thật đã bác bỏ hoàn toàn mọi luận điệu, chiêu trò ấy. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc. Trong tổng số trên 98 triệu dân (tính đến năm 2021) Việt Nam có trên 14 triệu người thuộc 53 DTTS, chiếm khoảng 14,6%. Đồng bào các dân tộc sống xen kẽ nhau, tập trung chủ yếu ở các vùng núi, đặc biệt vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, xây dựng và bảo vệ đất nước, các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết, giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau. Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm đến chính sách dân tộc, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, coi đó là nội dung có vị trí chiến lược quan trọng, một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Điều 5 Hiến pháp 2013 của Việt Nam hiến định: “1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. 4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Điều 16 Hiến pháp 2013 cũng hiến định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không ai bị đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.” Các quy định của Hiến pháp được thể chế và cụ thể hóa trong nhiều văn bản luật khác.
Như vậy, trong Hiến pháp 2013, quyền bình đẳng của các dân tộc tiếp tục được Nhà nước Việt Nam khẳng định. Đối với mỗi người dân Việt Nam sự khẳng định này là rất thiêng liêng được toàn dân, nhất là đồng bào các DTTS vui mừng, phấn khởi đón nhận và càng thấy rõ hơn niềm tự hào cũng như trách nhiệm của mình trước Tổ quốc.
Theo quy định của Hiến pháp, Hội đồng Dân tộc do Quốc hội bầu với các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của một cơ quan của Quốc hội. Hội đồng Dân tộc có nhiệm vụ nghiên cứu và kiến nghị Quốc hội về các vấn đề dân tộc, giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển KT-XH miền núi và vùng có đồng bào DTTS. Chính phủ có trách nhiệm tham khảo ý kiến Hội đồng Dân tộc trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc. Trong Chính phủ có một cơ quan cấp bộ là Ủy ban Dân tộc, chuyên trách công tác dân tộc.
Các quyền chính trị của đồng bào DTTS được tôn trọng và bảo vệ. Công dân Việt Nam thuộc các DTTS có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng Nhân dân (HĐND) như mọi công dân khác theo quy định của Hiến pháp. Có nhiều đại biểu của DTTS giữ các vị trí lãnh đạo, kể cả cấp cao nhất trong bộ máy lãnh đạo của Quốc hội và Chính phủ Việt Nam. Trong số 499 đại biểu Quốc hội khoá XV, có 89 đại biểu là người DTTS. Tỷ lệ đại biểu DTTS tại HĐND các cấp chiếm khoảng 20%. Tại các địa phương miền núi, tỷ lệ này còn cao hơn nhiều. Số lượng cán bộ là người DTTS ở các địa phương không ngừng tăng.
Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm và dành các điều kiện ưu đãi nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các DTTS, hỗ trợ họ thực hiện quyền bình đẳng, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các dân tộc tiến tới trình độ phát triển chung của cả nước. Tổng số vốn đầu tư cho các vùng DTTS và miền núi chiếm khoảng 35% tổng số vốn đầu tư phát triển của cả nước.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 (Khoá IX) Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác dân tộc, Chính phủ Việt Nam ban hành nhiều Chương trình phát triển KT-XH ở các vùng tập trung đồng bào DTTS. Chính phủ cũng có nhiều chỉ thị, quyết định và biện pháp cụ thể đối với một số vùng đặc thù có nhiều DTTS sinh sống, như: vùng miền núi phía Bắc, các tỉnh Tây Nguyên, vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Việc thực hiện chính sách dân tộc của Nhà nước Việt Nam đã mang lại những kết quả to lớn. Tình hình phát triển KT-XH ở các vùng đồng bào DTTS và miền núi đã mang lại kết quả rõ rệt. Cơ cấu kinh tế các vùng DTTS chuyển dịch mạnh. Tăng trưởng kinh tế tại các địa phương có nhiều DTTS luôn đạt tỷ lệ trên 10% /năm (cao hơn mức tăng trưởng toàn quốc). Cơ bản không còn số hộ đói, số hộ nghèo giảm mạnh. Tính đến năm 2019, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo của các hộ dân tộc vùng DTTS là 35,5%. An ninh lương thực vùng DTTS đã từng bước được bảo đảm…
Cơ sở hạ tầng phát triển khá nhanh. Đến nay, các địa phương vùng DTTS đã hình thành mạng lưới giao thông từ tỉnh đến huyện, xã, thôn bản. Tất cả các huyện và hầu hết các xã vùng đồng bào DTTS đã có trạm y tế. Hầu hết các xã vùng DTTS đã có bác sĩ; các thôn, buôn, bản có cán bộ y tế, nguồn thuốc dự trữ tại các xã phục vụ khám chữa bệnh cho đồng bào tăng cả về cơ số và chất lượng. Bộ Y tế cấp hàng triệu thẻ bảo hiểm và khám chữa bệnh miễn phí cho người DTTS.
Hệ thống giáo dục phổ thông phát triển nhanh tại vùng đồng bào DTTS và việc dạy tiếng dân tộc được đưa vào chương trình giảng dạy trong các trường phổ thông ở khu vực DTTS. Cả nước có gần 21,6 nghìn trường học và 26,5 nghìn điểm trường vùng DTTS. Đồng bào các DTTS được quan tâm tạo điều kiện tiếp cận văn hoá, thông tin. Ti vi đã trở thành một loại thiết bị sinh hoạt phổ biến của các hộ DTTS với trên 85% hộ sử dụng. Tỷ lệ hộ đồng bào DTTS có sử dụng điện thoại cố định, di động, máy tính bảng là trên 95%. Tỷ lệ hộ DTTS sử dụng máy vi tính là trên 15%. Tỷ lệ hộ được tiếp cận Internet của đồng bào vùng DTTS được cải thiện đáng kể, chiếm trên 65% tổng số hộ DTTS… Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của DTTS được tôn trọng và bảo đảm. Đa số đồng bào DTTS có tín ngưỡng riêng. Một bộ phận DTTS theo đạo, đặc biệt là đạo Tin lành ở Tây Nguyên và vùng núi phía Bắc, đạo Phật Nam Tông của đồng bào Khơ-me ở vùng Tây Nam Bộ…
Liên Hợp Quốc (LHQ) đánh giá cao việc Việt Nam coi cộng đồng các DTTS là bộ phận cấu thành của dân tộc Việt Nam. Qua khảo sát thực tế, LHQ hoan nghênh quyết tâm chính trị, các chính sách, biện pháp và chương trình của Chính phủ Việt Nam nhằm bảo đảm quyền của các DTTS trên mọi lĩnh vực, nhất là những nỗ lực thu hẹp khoảng cách phát triển KT-XH giữa đồng bào DTTS với đồng bào Kinh; ghi nhận và đánh giá cao những kinh nghiệm về xóa đói, giảm nghèo đối với đồng bào các DTTS của Việt Nam…
Chúng ta không phủ nhận bên cạnh những thành tựu cơ bản như đã nêu trên, tình hình KT-XH của đồng bào các DTTS và miền núi còn nhiều khó khăn, nhưng chủ yếu do hoàn cảnh khách quan: địa hình phức tạp, khí hậu phức tạp, điểm xuất phát về trình độ phát triển thấp… Trên tinh thần thực hiện chính sách đoàn kết, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, phát huy những thành quả đạt được, Chính phủ Việt Nam tiếp tục triển khai quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp nhằm khắc phục khó khăn, đẩy mạnh phát triển đời sống đồng bào DTTS.
Cần khẳng định một trong những ưu việt của chế độ XHCN ở Việt Nam là giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc. Đồng bào các dân tộc Việt Nam rất tự hào trước những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Thực tế tình hình dân tộc của Việt Nam hiện nay là rất tốt đẹp, các dân tộc đoàn kết cùng đồng bào cả nước phát triển tiến bộ vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh… Những luận điệu, chiêu trò vu cáo, xuyên tạc, bịa đặt mà các thế lực thù địch đang rêu rao là hoàn toàn sai trái và càng cho thấy âm mưu, thủ đoạn chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch ngày càng nham hiểm, xảo quyệt. Nhưng chúng sẽ không thể làm gì được. Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc là bằng chứng thuyết phục bác bỏ mọi luận điệu vu cáo, xuyên tạc. Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Mặt khác nhân dân Việt Nam luôn đề cao cảnh giác, chủ động tiến hành đồng bộ các biện pháp tiến công làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch./.
Nhận xét
Đăng nhận xét