Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy – một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn đề ra kế sách “sâu rễ, bền gốc” giữ yên bờ cõi, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Kinh nghiệm lấy dân làm gốc, giữ nước từ khi nước chưa nguy, chiến tranh nhân dân trở thành nghệ thuật, chiến lược xuyên suốt lịch sử cách mạng dân tộc. Kế thừa tư tưởng này, Đảng ta tiếp tục có sự phát triển về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Quán triệt sâu sắc vấn đề bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa vào nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển nhanh, bền vững là nội dung đặc biệt hệ trọng, mang tính cấp bách và chiến lược lâu dài. Bài viết tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận – thực tiễn về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước khi nước chưa nguy.
1. Một số vấn đề mang tính lý luận về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy
Dựng nước đi đôi với giữ nước là kết tinh kinh nghiệm quý báu lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta. Nói về giữ nước từ sớm, từ xa, Trần Quang Khải (1241 – 1294) nhà chính trị, quân sự thời Trần đã từng nói: “Thái bình tu trí lực. Vạn cổ thử giang san” (Thái bình nên tu dưỡng trí lực, vận lực. Đất nước vững nghìn thu). Hay Vua Lê Thái Tổ (1385 – 1433) căn dặn con cháu, muôn dân trăm họ: “Biên phòng hảo vị trù phương lược. Xã tắc ung tu kế cửu an” (Biên phòng cần có phương án, chiến lược tốt. Đất nước phải có kế lâu dài), “Lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy”. Cùng với đó, tổ tiên ta đã thực hiện nhiều chính sách làm cho “quốc phú, binh cường”, khi đất nước thanh bình thì khuyến khích nhân dân tích cực tham gia lao động, sản xuất, phát triển kinh tế, chuẩn bị tốt các điều kiện, có lực lượng đánh giặc, bảo vệ đất nước khi lâm nguy, coi trọng nuôi dưỡng lòng dân, “lấy dân làm gốc”. Cũng chính vì vậy, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn từng nói: “Thời bình, phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước…”. Tư tưởng, triết lý, kinh nghiệm quý báu của cha ông kết tinh từ lịch sử được kế thừa, vận dụng trong tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo nên giá trị văn hóa, nghệ thuật dựng nước, giữ nước Việt Nam. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là mối quan hệ gắn bó “máu thịt”, phát triển đất nước về mọi mặt không tách rời với nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
Các nhà kinh điển mácxít, đặc biệt là V.I. Lênin đã đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc phải đi đôi với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngay sau khi Cách mạng tháng Mười thắng lợi, Người yêu cầu: “Một khi chúng ta bắt tay vào công cuộc hòa bình kiến thiết thì chúng ta phải đem hết sức mình để tiến hành công cuộc đó không ngừng. Đồng thời, hãy chăm lo đến khả năng quốc phòng của chúng ta như chăm lo con ngươi của mắt mình”[1]. Người nhấn mạnh, giành được chính quyền đã khó, giữ được chính quyền càng khó hơn, giai cấp bóc lột, các lực lượng thù địch với giai cấp công nhân không bao giờ tự nguyện rút khỏi vũ đài lịch sử; ngược lại, chúng tìm mọi cách, điên cuồng phản kích để khôi phục lại “thiên đường” đã mất. Đúng như V.I. Lênin đã kết luận: “Không có và không thể có cách mạng mà lại không có phản cách mạng”[2]. Vì vậy, lãnh đạo cuộc đấu tranh trấn áp các hoạt động chống phá của các thế lực phản cách mạng, bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của đảng cộng sản cầm quyền. Hàm ý của Người là hết sức tranh thủ thời gian hòa bình, tận dụng mọi điều kiện thuận lợi, ra sức xây dựng các tiềm lực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tinh thần, khoa học – kỹ thuật, tiềm lực quân sự…chuẩn bị để đất nước sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy tiếp tục được kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” và căn dặn toàn dân, toàn quân ta: “Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”; “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững, chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”. Tư tưởng này được vận dụng góp phần làm nên cách mạng giải phóng dân tộc, đất nước ta giành được những thắng lợi to lớn, dân tộc được độc lập, nhân dân tự do, có cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc; là nguồn cảm hứng thôi thúc, cổ vũ phong trào giải phóng các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên toàn thế giới.
Trong thời kỳ đổi mới, kế thừa bài học kinh nghiệm quý báu lịch sử dân tộc, thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, không để bị động, bất ngờ. Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị về quốc phòng, an ninh đã xác định những vấn đề cơ bản về bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục phát triển, hoàn thiện đường lối về bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa, từ khi “nước chưa nguy”, trở thành tư tưởng chỉ đạo, phương châm hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công cuộc đối mới đưa đất nước vào giai đoạn phát triển mới: “Chủ động ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”, “có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”[3]; “Thực hiện dĩ bất biến, ứng vạn biến, trong đó lợi ích quốc gia – dân tộc là bất biến, kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược, vận dụng sách lược mềm dẻo, linh hoạt;… giữ trong ấm, ngoài êm, giữ nước “từ sớm, từ xa”, từ khi nước chưa nguy”. Thực tế công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước ta đã thực hiện phương châm trên. Tuy nhiên đây là lần đầu tiên, tư duy, lý luận về bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” được Đảng ta hoàn thiện, phát triển mới, chính thức đưa vào văn kiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc.
Về bản chất bảo vệ Tổ quốc: là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nội hàm bảo vệ Tổ quốc không chỉ có bảo vệ sự tấn công từ bên ngoài biên giới quốc gia lãnh thổ, mà còn giữ ổn định bên trong; không chỉ bảo vệ khi có kẻ thù xâm lược, mà phải tổ chức phòng thủ, phòng ngừa từ trước, chủ động về mọi mặt ngay từ trong thời bình; ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh từ bên ngoài; xử lý, giải quyết các vấn đề bên trong với phương châm “trong ấm, ngoài êm”, “giữ vừng bên trong là chính” với hàm ý giữ vững chính trị ổn định, kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển, quốc phòng, an ninh giữ vững, đối ngoại không ngừng được mở rộng xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Về bảo vệ Tổ quốc từ “sớm”: “Sớm” là trước thời điểm quy định, rất lâu trước đó (về thời gian). Bảo vệ Tổ quốc từ “sớm” là sớm về tư duy, nhận thức, sớm có quan điểm chỉ đạo, phương châm hành động, sớm trong nhận diện nguy cơ uy hiếp, sớm có phương án, lực lượng, phương tiện bảo vệ. Quá trình xây dựng, củng cố, phát triển cũng là quá trình triển khai các biện pháp phòng ngừa, bảo vệ, tự bảo vệ từ trước. Nói “bảo vệ Tổ quốc từ sớm” có nghĩa là phải có chiến lược bảo vệ, tự bảo vệ bên trong, từ bên trong; ngăn ngừa, triệt tiêu các nhân tố xâm lược, phá hoại, mất ổn định bên trong lẫn bên ngoài.
Về bảo vệ Tổ quốc từ “xa”: là bao hàm về không gian và cả thời gian, chủ động, cảnh giác, sớm phát hiện, triệt tiêu các nhân tố bất lợi từ xa về không gian địa lý, ngay trong lòng địch; xa về thời gian, phát hiện, triệt tiêu ngay từ nguyên nhân, điều kiện hình thành nguy cơ đe dọa, uy hiếp. Chủ động phân tích, dự báo, đấu tranh, làm thất bại từ bên ngoài, từ bên trong mọi âm mưu, hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời, chuyển hóa lẫn nhau. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm là điều kiện, tiền đề để bảo vệ Tổ quốc từ xa; bảo vệ Tổ quốc từ xa là để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, bảo đảm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Về nội dung bảo vệ Tổ quốc: Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Nội dung bảo vệ Tổ quốc bao hàm: (1) Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. (2) Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. (3) Bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. (3) Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. (4) Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa. (5) Giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về lực lượng bảo vệ Tổ quốc: Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ thiêng liêng của cả hệ thống chính trị, của mỗi người dân. Nghị quyết 28-NQ/TW xác định: “Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyết đối về mọi mặt đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân…”. Theo đó, Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; Nhà nước thống nhất quản lý, củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; nhân dân làm chủ, phát huy sức mạnh tổng họp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Lực lượng vũ trang làm nòng cốt, được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Như vậy, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy đã được nâng lên một tầm tư duy mới, không chỉ giới hạn ở bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ Tổ quốc từ xa, từ sớm, từ khi nước chưa nguy để bảo đảm có kế sách, chuẩn bị tốt các điều kiện bảo vệ đất nước ngay trong thời bình, khi chưa xảy ra chiến tranh; chủ động các phương án, lực lượng để bảo vệ Tổ quốc ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động, ứng phó kịp thời, hiệu quả, đảm bảo giành thắng lợi trong trong mọi tình huống; đồng thời đảm bảo ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, giữ vững quốc phòng, an ninh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Thực tiễn bảo vệ Tổ quốc từ xa, từ sớm và một số vấn đề đặt ra
* Thành tựu, kết quả đạt được
Thành tựu cơ bản, bao trùm bảo vệ Tổ quốc là giữ vững độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Cụ thể:
Một là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, xây dựng trật tự, kỷ cương. Phát hiện và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại các mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.
Hai là, nền quốc phòng toàn dân được xây dựng toàn diện, có bước phát triển nhất định cả về chiều rộng, chiều sâu, ngày càng vững chắc; tiềm lực, lực lượng và thế trận quốc phòng, an ninh được tăng cường, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc được nâng lên một bước. Lực lượng quốc phòng được quan tâm xây dựng, sức mạnh chiến đấu được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế bố trí chiến lược các lực lượng được xây dựng, điều chỉnh hợp lý hơn. Chất lượng xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố được nâng lên một bước; khả năng phòng thủ quốc gia được nâng lên, cả trên đất liền, biên giới, hải đảo. Xây dựng nền an ninh nhân dân có bước phát triển. Sự gắn kết giữa xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và xây dựng thế trận an ninh nhân dân chặt chẽ, hiệu quả hơn.
Ba là, kết hợp hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh, đối ngoại có chuyển biến quan trọng, kết hợp chặt chẽ, góp phần nâng cao thế và lực của đất nước, tăng cường sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc. Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước; tích cực, chủ động, độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập toàn diện, sâu rộng, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc.
Bốn là, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định. Coi trọng đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; bước đầu hạn chế “diễn biến hòa bình”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Phòng, chống có hiệu quả âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, đòi đa nguyên, đa đảng, tam quyền phân lập của các thế lực thù địch. Chủ động nắm tình hình, đánh giá, dự báo được âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phối hợp, xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống; không để xảy ra biến động chính trị, khủng bố, bạo loạn lật đổ, ly khai; cơ bản bảo vệ được an ninh kinh tế; đã nỗ lực giải quyết các vấn đề biên giới, biển, đảo, không để xảy ra đối đầu, xung đột vũ trang.
Năm là, giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Các tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang được kiện toàn, phát huy vai trò và hiệu lực lãnh đạo. Quản lý, đầu tư của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh được tăng cường, góp phần nâng cao tiềm lực bảo vệ Tổ quốc.
* Một số thách thức, nguy cơ đặt ra đối với bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa
Bên cạnh đó, trên một số lĩnh vực còn có hạn chế và trong tình hình mới xuất hiện những thách thức, nguy cơ mới tác động tiêu cực, là những vấn đề đặt ra đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc từ xa, từ sớm. Thế giới, thế kỷ XXI tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp, khó lường, ảnh hưởng, tác động nhiều mặt đến nước ta. Với vị trí địa chính trị quan trọng, Việt Nam đã, đang và luôn luôn sẽ là “trọng điểm” cạnh tranh chiến lược, lợi ích, ảnh hưởng của các nước lớn trong khu vực và phạm vi toàn cầu. Hơn nữa với chế độ xã hội chủ nghĩa, Việt Nam còn là mục tiêu chống phá của các thế lực thù địch… Những nguy cơ, thách thức này cần thiết phải nhận diện chính xác, đầy đủ ở cả hai hướng sau đây:
Một là, nguy cơ, thách thức từ bên ngoài.
Nguy cơ rơi vào thế mắc kẹt giữa các cường quốc hiện nay, thách thức trong triển khai chính sách đối ngoại, đối với các mối đe dọa. Cục diện thế giới, khu vực biến đổi mau lẹ, sự cạnh tranh, mặc cả chiến lược giữa các nước lớn; diễn biến khó lường, các điểm nóng khiến môi trường chính trị, an ninh khu vực ngày càng phức tạp, làm giảm lòng tin chiến lược giữa các quốc gia, kích thích chạy đua vũ trang và tâm lý dân tộc cực đoan, làm gia tăng căng thẳng và phức tạp quá trình giải quyết tranh chấp có liên quan đến lợi ích an ninh quốc gia. Với vị thế địa chính trị chiến lược quan trọng, vai trò tích cực trong các tổ chức quốc tế, khu vực, Việt Nam bị các nước tác động, gây ảnh hưởng, lôi kéo tham gia vào các cơ chế nhằm kiềm chế lẫn nhau, có thể đặt Việt Nam vào tình thế khó khăn trong ứng xử với từng nước và tại các diễn đàn quốc tế.
Thách thức an ninh đối với chủ quyền quốc gia ngày càng lớn, tạo môi trường bất lợi, gia tăng áp lực bảo vệ lợi ích quốc gia. Các tranh chấp lãnh thổ giữa nước ta với các nước lân cận khó có thể giải quyết triệt để, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột. Vấn đề Biển Đông gia tăng, bất ổn, phức tạp do Trung Quốc hành động cứng rắn hơn, phức tạp, khó lường hơn, đặc biệt là sử dụng các biện pháp thô bạo để giải quyết tranh chấp làm tăng nguy cơ trên biển, chủ quyền lãnh thổ bị xâm phạm. Các bên tranh chấp khác không từ bỏ, tăng cường tiềm lực, chạy đua vũ trang khiến tình hình ngày càng phức tạp, tạo ra mối đe dọa với an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định, phát triển đất nước.
Nguy cơ tụt hậu và phụ thuộc kinh tế vào các nước phát triển, các nước lớn, các định chế quốc tế ngày càng tăng. Những hạn chế trong hội nhập quốc tế như năng lực cạnh tranh thấp, trình độ quản lý chưa theo kịp, thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện, cơ chế, chính sách, pháp luật còn thiếu đồng bộ. Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào nhiều định chế kinh tế, tài chính quốc tế, chịu nhiều bất lợi và sức ép cải cách chính sách, thể chế, nguy cơ bị các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để can thiệp chủ quyền, xâm phạm an ninh quốc gia. Các nước lớn xác định những vấn đề, tiêu chí tiêu chuẩn cơ bản của biến đổi khí hậu, chuyển đổi số, chuỗi sản phẩm… làm điều kiện, tác động, chi phối, dẫn dắt quan hệ kinh tế quốc tế.
Thách thức phát triển khoa học công nghệ, áp đặt các giá trị, tư tưởng, văn hóa. Các nước phát triển, nước lớn tăng cường sử dụng các ưu thế sức mạnh vượt trội về kinh tế, khoa học, công nghệ để can thiệp, ra điều kiện trong quan hệ kinh tế, áp đặt các giá trị tư tưởng, văn hóa phương Tây vào Việt Nam; phá hoại nền tảng tư tưởng, bản sắc, truyền thống văn hóa dân tộc và những giá trị tinh thần của chủ nghĩa xã hội; nguy cơ an ninh mạng càng hiện hữu.
Các mối đe dọa từ an ninh bên ngoài từng bước chuyển vào nội bộ, bộc lộ rõ nét, tạo thách thức lớn đối với nhiệm vụ duy trì, ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Cùng với toàn cầu hóa, xu hướng “dân chủ hóa” trên thế với, các nước lớn đẩy mạnh phổ biến “sức mạnh mềm” thúc đẩy thay đổi chế độ chính trị, kích động phong trào ly khai, tự trị, thúc đẩy “môi trường tự do hóa, dân chủ hóa” theo kiểu phương Tây, làm xuất hiện, mở rộng khuynh hướng tư tưởng phức tạp trong nội bộ, các trào lưu xâm nhập vào Việt Nam, dẫn đến nguy cơ làm xói mòn truyền thống văn hóa dân tộc, phai nhạt lý tưởng, nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Sức ép vấn đề “dân chủ, nhân quyền” ngày càng lớn.
Nguy cơ “diễn biến hòa bình”. Các thế lực thù địch, phản động tăng cường thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”. Chúng triệt để lợi dụng xu hướng toàn cầu hóa, “tự do hóa chính trị”, “dân chủ hóa”, sự khác biệt về thể chế chính trị, pháp luật, những khó khăn, thiếu sót của Việt Nam…để tạo khủng hoảng về tư tưởng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gia tăng sức ép, chuyển hóa nội bộ, tác động vào quá trình cải cách tư pháp, lập pháp, thúc đẩy “tự do, dân chủ hóa”, công khai tài trợ, hậu thuẫn hình thành các tổ chức “xã hội dân sự”, hội nhóm khác nhau. Số phần tử cơ hội chính trị hoạt động ngày càng công khai, quyết liệt, phức tạp.
Các vấn đề an ninh phi truyền thống tiếp tục gia tăng. Mối đe dọa an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng với quy mô, tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng, tác động đến lợi ích, an toàn, an ninh quốc gia Việt Nam, như biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, an ninh năng lượng, an ninh con người…
Hai là, những thách thức, nguy cơ từ bên trong, nội bộ.
Việc xây dựng đồng bộ hệ thống chiến lược thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc còn chưa đồng bộ. Công tác tham mưu chiến lược chất lượng chưa cao, trên một số mặt chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình, yêu cầu nhiệm vụ. Đánh giá, dự báo tình hình có mặt chưa được cụ thể, kịp thời, còn bị động, bất ngờ trong một số tình huống. Chỉ đạo điều hành có lúc, có nơi thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị; công tác bảo vệ an ninh nội bộ, an ninh tư tưởng còn nhiều bất cập, sơ hở. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân chưa toàn diện; tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân chưa thật vững chắc. Đất nước vẫn tiềm ẩn các nhân tố có thể gây mất ổn định. Việc kếp hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có lúc, có nơi chưa thật hiệu quả; kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong thực tiễn còn có lúc, có nơi chưa thật hiệu quả, có mặt còn hình thức. Đầu tư cho quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận, khu vực phòng thủ, phát triển khoa học – công nghệ…chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tình hình an ninh chính trị nội bộ xuất hiện một số biểu hiện tiêu cực. Các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chưa được đẩy lùi, có mặt bộc lộ rõ nét, nghiêm trọng hơn mà Đảng ta chỉ rõ: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những người giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp cao, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tham nhũng, lãng phí…; công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ còn bộc lộ những sơ hở, để các đối tượng tác động, phân hóa, lôi kéo, chia rẽ, mất đoàn kết. Công tác bảo vệ bí mật nhà nước, tình trạng cung cấp tin, tài liệu bí mật, lũng đoạn nội bộ diễn biến phức tạp, có một số trường hợp bị móc nối làm nội gián, bị lôi kéo, mua chuộc, tham gia các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Tư tưởng, lối sống một bộ phận đông đảo, nhất là giới trẻ phai nhạt lý tưởng, đạo đức, lối sống.
An ninh kinh tế tiềm ẩn những bất ổn. Trước tác động của đại dịch, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, các doanh nghiệp tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, nợ xấu, khiến nhiều doanh nghiệp phá sản, lao động thất nghiệp, tiềm ẩn bất ổn xã hội. Tình trạng trốn thuế, trục lợi hoàn thế, vi phạm pháp luật, làm sai quy định với thủ đoạn tinh vi, thao túng thị trường, lĩnh vực cơ bản, như tài chính, chứng khoán, bất động sản của nhiều tổ chức, cá nhân, tập đoàn tư nhân lớn vừa qua gây thất thoát, tác động lớn đến nền kinh tế. Tình trạng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) lập dự án, xin đất, huy động vốn, đưa được người vào Việt Nam, chuyển giao, chuyển giá, nợ đọng lương, lãn công, biểu tình ở các nhà máy, khu công nghiệp ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, đối ngoại, môi trường đầu tư ở Việt Nam.
An ninh mạng tiếp tục diễn biến phức tạp, khó kiểm soát. Các nước lớn xác định an ninh mạng là “vấn đề cốt lõi”, đe dọa an ninh mạng là đe dọa an ninh quốc gia. Ở Việt Nam, an ninh mạng đặt ra ngày càng cấp bách. Các cơ quan đặc biệt nước ngoài, tin tặc thường xuyên lợi dụng điểm yếu này để tấn công xâm nhập, thu thập thông tin, bí mật nhà nước, cài cắm mã độc, phần mềm gián điệp. Đồng thời, đây là công cụ đắc lực để phá hoại nền tảng tư tưởng, tuyên truyền xuyên tạc, luận điệu sai trái, thù địch. Các tổ chức phản động lưu vong tăng cường xâm nhập, móc nối, mua chuộc, phát triển lực lượng, hình thành tổ chức, hội nhóm chống, phá quyết liệt. Các loại tội phạm mạng, tội phạm công nghệ cao diễn biến phức tạp, hoạt động tinh vi, quy mô, tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm, nghiêm trọng. Công tác bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin còn nhiều sơ hở, quản lý nhà nước, cơ chế kiểm soát bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng còn có hạn chế, bất cập.
An ninh xã hội có nhiều yếu tố mất ổn định. Các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tôn giáo gia tăng hoạt động, công khai chống phá quyết liệt. Số đối tượng cực đoan trong các tôn giáo tuyên truyền, xuyên tạc, kêu gọi quốc tế gây sức ép, can thiệp vấn đề “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo”; cổ vũ, kích động, chỉ đạo, ủng hộ tinh thần, vật chất, hình thành tổ chức, hội nhóm chống phá. Hoạt động của các “đạo lạ”, “tà đạo”, “hiện tượng tôn tín ngưỡng, tôn giáo mới” có chiều hướng phát triển, lây lan phức tạp, gây mất an ninh trật tự. Tình hình tranh chấp, khiếu kiện diễn biến phức tạp, bị phần tử xấu lợi dụng, gây rối trật tự công cộng. An ninh các địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ.
Tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Hoạt động của các loại tội phạm vẫn diễn ra hết sức phức tạp, tính chất, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng. Tội phạm xâm phạm thân thể hành vi gây án ngày càng dã man, tàn bạo. Tình trạng chống người thi hành công vụ, nhất là cán bộ công an, hành vi chống đối manh động, liều lĩnh. Tội phạm kinh tế, tham nhũng nổi lên trong nhiều lĩnh vực, nhất là tài chính, ngân hàng, đất đai – bất động sản, y tế, cố ý làm trái tại các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân gây thất thoát, lãng phí lớn.
3. Một số vấn đề mang tính phương pháp luận, định hướng giải pháp thực hiện bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước khi nước chưa nguy
Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp và có nhiều yếu tố không thuận lợi, dễ gây mất ổn định. Các nước lớn tăng cường điều chỉnh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng; chiến tranh thương mại, công nghệ, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ diễn ra gay gắt; xung đột vũ trang, khủng bố, tấn công mạng gây bất ổn ở nhiều quốc gia. Đặc biệt, trên Biển Đông tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn về an ninh, chính trị và chủ quyền đất nước. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội; đối tác, đối tượng chuyển hóa mau lẹ, khó đoán định; tình hình an ninh, chính trị một số địa phương, cơ sở chưa thật sự ổn định vững chắc; việc mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện trên các lĩnh vực, đặt ra không ít khó khăn, thách thức cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước tình hình đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần nhận thức ý nghĩa, nhất quán quan điểm “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”, “giữ nước từ khi nước chưa nguy” cần quán triệt một số vấn đề sau đây:
Một là, phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh tổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia – dân tộc. Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước. Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Ứng phó kịp thời với các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng chống thiên tại, dịch bệnh. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển.
Hai là, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng, củng cố và phát huy hiệu quả “thế trận lòng dân” trong “nền quốc phòng toàn dân”, “nền an ninh nhân dân”. Kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và ngược lại. Cụ thể hóa và thực hiện hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội; quán triệt, thực hiện hiệu quả chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch.
Ba là, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến 2030 xây dựng Quân đội, Công an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội, Công an tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, có lý tưởng, năng lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống. Quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển. Xây dựng lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cơ sở, đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở. Xây dựng, củng cố biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển.
Bốn là, xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại, lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và củng cố các tuyến phòng thủ biên giới, biển, đảo; có cơ chế huy động nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh tại khu vực, tuyến phòng thủ. Nâng cao năng lực dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược, không để bị động, bất ngờ. Chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống.
Năm là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội, công an đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mạnh về chính trị, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy./.
Trung tướng, PGS,TSTRẦN VI DÂN
Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
Cục trưởng Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử Công an
Bộ Công an
Nhận xét
Đăng nhận xét