Chiến thắng của lương tri, nhân phẩm con người và giá trị của máu xương
Chiến thắng của lương tri, nhân phẩm con người và giá trị của máu xương
Dương Phương Duy
Chúng ta đang sống trong những ngày Tháng Tư lịch sử đầy ắp các sự kiện văn hóa chính trị – tinh thần. Khắp nơi, trên mọi miền đất nước, trên các con đường, không khí hân hoan chào đón các ngày lễ lớn: 30-4, 1-5, 7-5 và Ngày sinh nhật Bác Hồ kính yêu 19-5, tràn ngập các khu phố, bản làng, đồng ruộng Việt Nam. Chưa bao giờ hào khí Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh lại náo nức lòng người như dịp này. Hương vị chiến thắng thật ngọt ngào; đất nước vào mùa Hè thật tươi đẹp; giá trị và ý nghĩa chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và Đại thắng mùa Xuân 1975 thật lớn lao; đã và đang tiếp lửa, thắp sáng niềm tin yêu, hy vọng; làm rạo rực hàng chục triệu trái tim người dân Việt Nam yêu nước, yêu CNXH.
1. Đã thành thông lệ, cứ vào dịp này, một số phần tử chống cộng cực đoan ở hải ngoại lại cấu kết với các thế lực thù địch, phản động, một số phần tử bất mãn, cơ hội chính trị ở trong nước cùng vào hùa với nhau, viết tin, bài, dàn dựng các video clip, mở các cuộc luận bàn, phỏng vấn và trả lời phỏng vấn để tung lên mạng xã hội nhan nhản thông tin xấu, độc nhằm xuyên tạc lịch sử, phủ nhận giá trị, ý nghĩa chiến thắng hào hùng của dân tộc, làm nhiễu loạn môi trường văn hóa chính trị ở nước ta. Qua đó, tạo cớ để bài xích, kích động; hạ thấp uy tín, vị thế của Đảng, Nhà nước, phủ nhận thành quả cách mạng; tính ưu việt của chế độ XHCN. Trong đó, mũi nhọn của các chiêu trò chống phá là xuyên tạc giá trị, ý nghĩa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta.
Đúng là “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, những người ở bên kia chuyến tuyến và các đối tượng bất mãn, vẫn cay cú, thâm thù với chế độ, oán giận Đảng, Nhà nước, Quân đội ta. Họ tiếp tục “nhai lại điệp khúc” cũ với chiêu thức mới, gọi Chiến thắng 30-4-1975 là “Ngày Quốc hận”; coi “các sự kiện lịch sử diễn ra trong Tháng 4-1975 là “hội chứng tháng tư đen tối”. Từ đó, họ vu cáo cuộc chiến tranh do đế quốc Mỹ tiến hành xâm lược Việt Nam 1954 – 1975 là “cuộc nội chiến giữa hai miền Nam – Bắc” do “tập đoàn Hà Nội chủ mưu”, v,v..
Nguy hiểm và ác ý hơn, một số phần tử bất mãn, cơ hội chính trị cả cũ và mới, đã lợi dụng sự kiện này để tuyên truyền sai trái trên các phương tiện truyền thông quốc tế, với các loại ngôn ngữ khác nhau để cáo buộc Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam gây ra cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam với mưu đồ: hạ thấp uy tín, vị thế của Đảng trước nhân dân, bôi đen Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhân dịp này, họ mở đợt tuyên truyền, cổ súy cho lối sống, tính ưu việt của văn hóa phương Tây; qua đó, xúi giục thế hệ trẻ Việt Nam, nhất là lưu học sinh và kiều bào ở nước ngoài “tẩy chay Đảng”, “ly dị chế độ XHCN”, “quay lưng với dân tộc”. Cùng với đó, họ kêu gọi giới trẻ đứng dậy đấu tranh chống “chế độ đảng độc quyền”, xây dựng chế độ mới “tự do, dân chủ”, “nhân quyền” theo “lý tưởng, mô hình và phong cách phương Tây”. Tất cả các chiêu trò ấy là nhằm mục đích làm xói mòn, suy giảm niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN, đòi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, mở rộng “tự do, dân chủ, nhân quyền”; thành lập “xã hội dân sự”, các “văn đoàn độc lập”, “hội nhà báo độc lập” ở Việt Nam và các tổ chức “phi đảng”…
2. Vẫn biết chuyện đã qua rồi, cần “khép lại quá khứ nhìn về tương lai”, mở ra những chương mới cho con cháu được hưởng giá trị của hòa bình, độc lập, tự do; an tâm xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Thế nhưng, “cây muốn lặng mà gió chẳng muốn đừng”; những người có quan điểm thù địch, phản động, cơ hội chính trị, đã và đang tìm trăm mưu nghìn kế nhằm thay đổi hiện thực đất nước, muốn quay ngược bánh xe lịch sử; đưa xã hội Việt Nam đi theo quỹ đạo TBCN có lợi cho họ. Nhưng buồn thay, họ đã nhầm to! Làm sao họ có thể thay đổi giá trị lịch sử và ý nghĩa hiện thực đầy tính nhân văn của các cuộc kháng chiến thánh thần mà quân và dân ta đã làm nên chiến thắng bằng bản lĩnh, trí tuệ, ý chí kiên cường, lòng dũng cảm và sự hy sinh xương máu của cả một dân tộc.
Hơn ai hết, nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới đều đã rõ: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta từ năm 1954 đến năm 1975 là cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm và chống lại bè lũ tay sai – những thế lực đi ngược lại lợi ích quốc gia – dân tộc; chà đạp lên nguyện vọng chính đáng của Nhân dân Việt Nam muốn được sống trong hòa bình, độc lập, tự do; có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đó là cuộc chiến đấu bảo vệ chính nghĩa, quyền được sống làm người; khẳng định và bảo vệ quyền tự quyết của dân tộc có độc lập, chủ quyền; có tên trên bản đồ thế giới.
Vì lẽ phải, công bằng và đạo lý, chúng ta đã vượt lên mọi đau thương, mất mát; Nhân dân ta một lòng một dạ đi theo Đảng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh thực hiện khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Vì lẽ đó, Đảng đã đề ra đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo để lãnh đạo toàn dân, toàn quân ta trên cả hai miền Nam – Bắc: quyết tâm đánh cho “Mỹ cút, ngụy nhào”; miền Bắc thật sự là hậu phương lớn của miền Nam – tuyền tuyến lớn. Bằng bản lĩnh, trí tuệ và máu xương, quân và dân ta đã “nếm mật nằm gai suốt 21 năm dòng” để đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Trải qua thời kỳ “chiến tranh lạnh” trên thế giới nhưng tầm nhìn, quan điểm, chiến lược, sách lược của Đảng, Nhà nước ta vẫn “nóng”, các quyết sách của Đảng ta thật khôn khéo, hợp lý, hợp tình. Đảng ta đã tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế và viện trợ cao nhất của các nước XHCN anh em, trước hết là Liên Xô và Trung Quốc, nhưng kiên định, sáng suốt không lôi kéo các nước XHCN vào trực tiếp tham chiến ở Việt Nam.
3. Với tinh thần “tự lực cánh sinh”, “lấy sức ta mà giải phóng cho ta”, từ giữa năm 1972, khi viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc cho Việt Nam có phần suy giảm mạnh, Đảng, Nhà nước ta vẫn kiên quyết giữ vững mục tiêu của mình: Độc lập dân tộc và CNXH mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn.
Một mặt, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền sâu rộng ở trong nước và trên thế giới, làm cho mọi người hiểu rõ hơn sự nghiệp chính nghĩa của Nhân dân Việt Nam; đồng thời, vạch trần tội ác của xâm lược và bè lũ tay sai bán nước. Mặt khác, kiên quyết giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tự lực tự cường; đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết và trước hết.
Với quan điểm nhất và xuyên suốt ấy, Đảng ta đã xử lý khôn khéo, mềm dẻo các mối quan hệ quốc tế có lợi cho Việt Nam và luôn coi trọng mối quan hệ đoàn kết quốc tế; nhất là đối với Liên Xô, Trung Quốc; xây dựng và củng cố liên minh chiến đấu: Việt Nam – Lào – Campuchia. Qua đó, làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ: Vì sao đế quốc Mỹ áp đặt chế độ thống trị thuộc địa kiểu mới ở miền Nam Việt Nam; Vì sao đế quốc Mỹ gây ra cuộc chiến tranh xâm lược đối với một quốc gia có độc lập chủ quyền; Vì sao Việt Nam dám đánh Mỹ và quyết thắng Mỹ xâm lược, v.v..
Bác bỏ mọi quan điểm sai trái, xuyên tạc và vu khống; sự thật lịch sử khẳng định rằng, sau 21 năm kiên trì bám trụ “một tấc không đi, một ly không rời”, kiên quyết, kiên trì chiến đấu, Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi hoàn toàn với đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân 1975 lịch sử. Đây không chỉ là chiến thắng của niềm tin, ý chí, nghị lực phi thường mà còn là thắng lợi của đường lối, tư duy chiến lược độc đáo, độc lập, tự chủ, sáng tạo, của sách lược ứng xử khôn khéo, kiên quyết và hiệu quả của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta.
4. Ai đó cho rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta kéo dài 21 năm (1954-1975), thực chất là “cuộc nội chiến”; là “cuộc chiến tranh ủy nhiệm” do Liên Xô, Trung Quốc “chống lưng”, “là sân sau của phe XHCN” là hoàn toàn sai lầm. Thực tế chỉ ra rằng, các ý kiến coi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh ý thức hệ nên không đáng tự hào, chỉ là sự cố chấp, cố tình đánh tráo khái niệm, ngụy biện. Họ đã “đội mũ ni che tai”, ngoảnh mặt làm ngơ trước sự thật lịch sử vẻ vang, bi hùng của dân tộc. Điều đó đã làm họ mờ mắt, thêm “nhúng sâu vào vũng bùn” của nhận thức; dẫn họ đến những sai lầm nghiêm trọng trong hành động; đã xuyên tạc sự thật cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của Nhân dân ta; cần phải vạch mặt sự đê hèn, phản phúc ấy.
Nhìn lại xem, những kẻ rêu rao rằng, ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của quân và dân ta là “ngày quốc hận” bởi “Đảng Cộng sản ra lệnh cho quân Bắc Việt tràn vào xâm chiếm miền Nam”, “người Việt trị người Việt” là những luận điệu sai trái, sáo rỗng và lừa bịp. Nó không thể làm người dân đất Việt mắc mưu địch bởi chính giá trị lịch sử và ý nghĩa trọng đại của Chiến thắng 30-4-1975 với lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên Dinh Độc lập cũng như thành tựu của 37 năm đổi mới đất nước đã bác bỏ và phủ nhận quan điểm sai trái ấy.
Ai cũng biết rõ để có ngày toàn thắng, non sông gấm vóc thu về một mối, Bắc – Nam xum họp một nhà, quân và dân ta đã phải đổi bằng máu xương của gần 2 triệu anh hùng liệt sĩ, đồng chí, đồng bào, đã phải trải qua muôn vàn đắng cay của sự hy sinh, gian khổ, thậm chí có những thời điểm rơi vào tình thế hiểm nghèo, cách mạng như ngàn cân treo sợi tóc. Hãy ai còn nghi ngờ sự thật ấy, xin một lần hãy đến với Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn, Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Đường Chín và nhiều Nghĩa trang Liệt sĩ trên khắp mọi miền đất nước sẽ hiểu cái giá của hòa bình, độc lập, tự do mà Nhân dân ta đã phải trả. Hãy đọc kỹ lịch sử Việt Nam hiện đại để rõ hơn đất nước này vì sao có hàng ngàn Mẹ Việt Nam Anh hùng; hàng trăm ngàn người con mồ côi bố, mẹ; hàng vạn cháu bị nhiễm chất độc da cam, v, v.. Và hằng triệu Anh hùng Liệt sĩ, đồng chí, đồng bào đi mãi không về quê, không được gặp lại người thân yêu…
5. Chiến thắng là sự kết tinh ý chí, nghị lực, tinh thần đoàn kết, triệu người như một của quân và dân ta. Trong Chiến thắng còn có cả sự hy sinh máu xương nữa đấy! Tất cả đã kết thành tượng đài Niềm tin -Chiến thắng; trở thành biểu trưng sức mạnh Việt Nam:“thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “tất cả cho tuyền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Chính nó đã tôi luyện và giúp quân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành thắng lợi vẻ vang.
Thử hỏi những người ở bên kia chiến tuyến: Nếu Nhân dân Việt Nam không kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống quân xâm lược suốt 21 năm dòng, liệu có được Chiến thắng 30-4-1975 này không? Nếu không có sự hy sinh xương máu của các Anh hùng Liệt sĩ, đồng chí, đồng bào hai cả miền Nam – Bắc thì làm sao dân tộc này, đất nước này làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975 hùng vĩ, liệt oanh?. Nếu không đập tan các chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” và giành chiến thắng lịch sử “Hà Nội – Điện Biên phủ trên không” tháng 12-1972 và buộc người Mỹ phải thay đến 8 đời tổng thống, v.v., thì liệu “Mỹ có cút, ngụy có nhào”.
Rõ ràng, những giọng điệu lạc lõng, sự xuyên tạc, bôi đen những chiến công vang dội của quân và dân ta, có thể làm cho chúng ta có chút chạnh lòng, tự ái. Song, chính điều ấy, tự nó lại tôn vinh, khẳng định rõ hơn tầm vóc, giá trị và ý nghĩa những chiến thắng vĩ đại mà nhân dân ta đã giành được. Cùng với đó, nó khẳng định tính chính nghĩa, chính danh, chính đáng của cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, lương tri và trách nhiệm của Việt Nam đối với nhân loại về gìn giữ nền hòa bình thế giới.
Điều đó cắt nghĩa vì sao Chiến thắng 30-4-1975 của quân và dân ta lại lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu; chiến thắng của Nhân dân Việt Nam – Chiến thắng của lương tri, nhân phẩm con người. Giá trị của máu xương đã, đang kiến tạo nên sự kỹ vĩ của Việt Nam anh hùng; sự kết tinh của hàng ngàn năm lịch sử dân tộc Việt Nam./.
Nhận xét
Đăng nhận xét