CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỂ ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ TRƯỜNG PHÁI NGOẠI GIAO “CÂY TRE VIỆT NAM” CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
Đối với dân tộc Việt Nam, cây tre đã trở nên gắn bó và thân thuộc, tre hiển hiện trong cuộc sống con người với nét mộc mạc, bình dị nhưng đầy chắc chắn, kiên cường, dẻo dai và ngay thẳng. Có lẽ vì thế, cây tre là biểu tượng cho sức sống của con người, dân tộc Việt Nam trải qua biết bao khó khăn, gian khổ mà vẫn đầy kiêu hãnh, ngoan cường. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã mượn hình ảnh cây tre dân tộc để nói về nét đặc sắc và độc đáo của nền ngoại giao cách mạng thời đại Hồ Chí Minh, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, sự linh hoạt, tinh thần “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” đó là trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”[1]. Thế nhưng, với âm mưu nham hiểm, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị không ngừng chống phá đường lối đối ngoại của Đảng, trong đó có trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Vì thế, nắm chắc cơ sở lý luận và thực tiễn về trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” là tiền đề quan trọng xây dựng luận cứ khoa học đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; đồng thời góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhân dân nhất quán với quan điểm, đường lối của Đảng, chung sức, đồng lòng vì mục tiêu xây dựng Việt Nam hùng cường.
Đặc trưng của trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”
Trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam” là thuật ngữ thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt, kiên cường và đầy bản lĩnh của đường lối đối ngoại Việt Nam, như lời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi khó khăn, thử thách vì độc lập dân tộc, vì tự do, vì hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tuỳ cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”!”[2]. Qua đó, chúng ta thấy được nội hàm đầy sâu sắc và ý nghĩa của ngoại giao “cây tre Việt Nam”, nét đặc sắc, tinh tế khi dùng hình tượng cây tre làm đặc trưng cho trường phái ngoại giao Việt Nam. Bởi vì, cây tre trở nên gần gũi, thân thuộc với mỗi người dân Việt Nam, đã đi vào văn hóa dân tộc với những đặc tính tự nhiên nổi trội: gốc vững chãi, thân chắc chắn, cành uyển chuyển, mềm dẻo nhưng rất kiên cường, không có cơn gió nào quật ngã được. Đặc điểm nổi trội của cây tre là dẻo dai, giàu sức sống, dễ thích nghi với môi trường. Tre vững chãi vì sống kết thành bụi, thành lũy, thành rừng, rễ bám sâu vào lòng đất, gió bão cũng phải chịu thua…
Điều này nói lên nền ngoại giao thấm đượm hồn cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam, đó là mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường quyết liệt, linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi khó khăn thử thách vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Khái quát biểu tượng cây tre “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, chính là triết lý, phương pháp luận và phương châm chỉ đạo của ngoại giao Việt Nam. Nền tảng văn hóa, truyền thống hữu nghị, hòa hiếu, khoan dung, đường lối của Đảng, là cội nguồn, là cái gốc để ngoại giao vững chắc, vươn cao. Có sự trùng hợp kỳ lạ giữa hình tượng cây tre Việt Nam với trường phái ngoại giao Việt Nam. Nói trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” chính là sự ghi nhận những phẩm chất tốt đẹp, sức mạnh, đóng góp của mặt trận ngoại giao, ngành Ngoại giao, hoạt động ngoại giao.
Nhận diện các luận diệu chống phá của các thế lực thù địch đối với trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”
Ngay sau bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ngày 14/11/2021 được đăng tải, các thế lực phản động, các phần tử cơ hội chính trị đã sử dụng những chiêu bài mang danh “phân tích”, “phản biện”, “bình phẩm” với cường độ cao, tần suất lớn và diện bao phủ rộng trên các trang Việt Tân, Đài Á Châu Tự do, Dân Làm Báo, Tiếng dân News… nhằm xuyên tạc chủ trương đối ngoại của Việt Nam trong đó có ngoại giao “cây tre Việt Nam”, tập trung vào những nội dung cụ thể như:
Thứ nhất, chúng rêu rao rằng ngoại giao “cây tre Việt Nam” là “ngoại giao đu dây”, “không dám thể hiện lập trường”, không có mục đích phục vụ lợi ích đất nước và dân tộc mà chỉ nhằm phục vụ cho Đảng. Cụ thể, quan điểm của Việt Nam về cuộc xung đột vũ trang Nga – Ukraine (từ tháng 2 năm 2022) đó là kêu gọi các bên chấm dứt xung đột, khôi phục hòa bình, bảo vệ an ninh, an toàn của người dân và cơ sở hạ tầng thiết yếu. Từ đó, Việt Nam đã 4 lần bỏ phiếu trắng khi biểu quyết những vấn đề liên quan đến Nga và Ukrain (ngày 01/03/2022, 24/3/2022, 12/10/2022 và 23/2/2023) tại hội đồng Liên Hợp Quốc. Thế nhưng, các phần tử phản động lại rêu rao rằng hành động của Việt Nam là “ba phải”, “mơ hồ, không rõ ràng”, “Việt Nam không đi theo số đông”, thậm chí có luận điệu cho rằng Việt Nam đang ngấm ngầm ủng hộ cho chiến tranh, quay lưng với hòa bình, “không kiên định”, “Không dứt khoát”, “lạc lõng giữa thời cuộc”.
Thứ hai, chúng xuyên tạc rằng ngoại giao “cây tre Việt Nam” là lạc hậu, đường lối bị động, do thiếu bản sắc nên bị hòa tan, cóp nhặt từ “ngoại giao cây sậy” (gió thổi về phía nào thì ngả về phía ấy, sẵn sàng “cúi đầu, thần phục” trước kẻ khác để tránh đụng độ hoặc đem lợi về cho mình) của Thái Lan. Chúng cho rằng trong kỷ nguyên hiện đại, toàn cầu hóa, mỗi nước phải biết và chọn cho mình một nước lớn để dựa vào mới có thể bảo vệ đất nước khi cần thiết. Thế nên, chúng xuyên tạc rằng ngoại giao “cây tre Việt Nam” và chính sách quốc phòng 4 không (không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) là không tức thời, là lạc hậu, ích kỷ, hẹp hòi.
Thứ ba, chúng xuyên tạc rằng ngoại giao “cây tre Việt Nam” là chính sách “tầm gửi”, “ăn bám” vào thân cay khác để sống. Vì thế, trước mỗi chuyến thăm của các nguyên thủ quốc gia nước ta đến các nước lớn, các đối tượng dân chủ lại cho đăng đàn các bài viết với nội dung xuyên tạc rằng Việt Nam đang “ăn bám”, “lợi dụng” các nước lớn, mà lợi ích đem lại chỉ cho các lãnh đạo chứ không phải nhân dân. Mới đây, khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới thăm Trung Quốc (từ ngày 30/10/2022 đến 02/11/2022), các trang, nhóm phản động thi nhau đăng tải các status, bài viết với ngụ ý: cuộc gặp này chỉ mang tính cá nhân chứ không phải đại diện cho Đảng, cho nhân dân; hay “Việt Nam đang lo ngại điều gì mà lại tỏ ra thân Trung Quốc”; thúc đẩy cái gọi là “Bài Trung, thoát Mỹ”.
Thứ tư, chúng chỉ ra cái gọi là “mâu thuẫn” trong trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” hòng kích động nhân dân đòi đổi mới đường lối đối ngoại của Đảng. Thông thường, trước mỗi sự kiện ngoại giao quan trọng như các hội nghị đối ngoại, các chuyến thăm cấp cao,… các phần tử phản động mang danh “kiến nghị”, “thư ngỏ” một mặt, chúng “vờ” chỉ ra những mâu thuẫn như “Việt Nam không liên minh quân sự thì làm sao có thể hợp tác đa phương”, “đã độc lập tự chủ thì sao còn đòi hợp tác và phát triển”, …Mặt khác, chúng hạ thấp vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế, đòi hỏi phải đổi mới đường lối đối ngoại, đòi Việt Nam phải “có lập trường rõ ràng, phải chọn bên hợp lý”, “phải tức thời”, chúng đòi “dân chủ hóa Việt Nam”… Sau khi các hội nghị đối ngoại thành công, chúng lại tiếp tục xuyên tạc rằng “Việt Nam làm màu, hình thức, tất cả chỉ là giả tạo”.
Tất cả các luận điệu xuyên tạc trên của các đối tượng phản động nhằm mục đích xuyên tạc đường lối đối ngoại của Đảng, trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Mà sâu xa hơn cả, âm mưu cuối cùng của chúng là tạo ra sự hoang mang, “lèo lái” dư luận, gây chia rẽ, kích động từ bên trong đối với các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tiến tới thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Sự nguy hiểm mà chúng gây ra đó là ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ hữu nghị, hợp tác của Việt Nam đối với các quốc gia trên thế giới, hạ thấp uy tín và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.
Do vậy, để nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc ngoại giao “cây tre Việt Nam”, trước hết, cần nâng cao nhận thức của mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân về nét đặc trưng, cơ sở lý luận và thực tiễn của ngoại giao “cây tre Việt Nam, thể hiện trên những nội dung cụ thể sau:
Trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam” – cơ sở lý luận
Trường phái ngoại giao "Cây tre Việt Nam" dựa trên mối quan hệ biện chứng giữa đối nội và đối ngoại, xuất phát từ nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và truyền thống, bản sắc ngoại giao, văn hóa dân tộc. Như chúng ta đều biết, đối nội và đối ngoại là hai vấn đề vô cùng quan trọng của bất kỳ một quốc gia nào, chúng có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau như hai cánh của một con chim, tạo thế và lực cho nhau. Đối nội được hiểu là những quy định của Nhà nước ban hành nhằm mục đích duy trì sự trật tự về kinh tế, xã hội, an ninh trong nước. Đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các nhà nước và dân tộc khác. Việc xác định và thực hiện các chức năng đối ngoại luôn phải xuất phát từ tình hình thực hiện các chức năng đối nội. Đồng thời, kết quả của việc thực hiện các chức năng đối ngoại sẽ tác động mạnh mẽ tới việc tiến hành các chức năng đối nội.
Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam được quy định trong Điều 2 Hiếu pháp năm 2013: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức…” Chức năng quan trọng nhất Nhà nước ta: Bảo vệ chế độ Chủ nghĩa xã hội; bảo vệ quyền tự do, dân chủ cho nhân dân; tổ chức và quản lý kinh tế;… Xuất phát từ chức năng của Nhà nước Việt Nam XHCN, chính sách đối ngoại của nước ta được nhất quán đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; được cụ thể hóa trong các kỳ đại hội. Độc lập là tự định đoạt vận mệnh dân tộc mình mà không bị lệ thuộc vào sự can thiệp của nước ngoài nào; không có quân đội nước ngoài đóng trên lãnh thổ; một nhà nước có chủ quyền, có nhân dân và có lãnh thổ riêng. Chủ quyền là Nhà nước có quyền tự quyết riêng về đối nội, đối ngoại, chiến tranh – hòa bình của quốc gia mình, đảm bảo sự thống nhất, toàn vẹn về lãnh thổ. Trong đó, đường lối đối ngoại được Đại hội XIII của Đảng, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã thống nhất rất cao về nhận thức và quyết tâm: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hữu nghị hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, đảm bảo cao nhất lợi ích quốc gia dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi, kết hợp sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Việt Nam là bạn là đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”[3]. Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định ngoại giao là một “mặt trận”, giữ vai trò “tiên phong”, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước Việt Nam; ngăn ngừa nguy cơ xung đột, chiến tranh, “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”...
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – nền tảng vững chắc của quan điểm và chính sách đối ngoại của Đảng ta, trong đó có ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Để giải quyết đúng đắn vấn đề về dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, việc đứng vững trên lập trường của Chủ nghĩa Mác – Lênin là một yêu cầu có tính nguyên tắc, vì rằng đấu tranh cho quyền bình đẳng, quyền tự do của các dân tộc là một nội dung quan trọng trong học thuyết Mác – Lê nin về quan hệ quốc tế: “Một Đảng Cộng sản chân chính khi giải quyết các vấn đề quan hệ quốc tế phải luôn giương cao ngọn cờ đoàn kết hòa bình, lên án các cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc, tích cực đấu tranh bênh vực và bảo vệ quyền lợi chân chính của các dân tộc”[4].
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người kế thừa, vận dụng sáng tạo những tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về quan hệ quốc tế vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Với tư tưởng nhất quán, Người khẳng định: con đường của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, mang dấu ấn riêng của Việt Nam. Mục đích của hoạt động đối ngoại phải đem lại lợi ích cho nhân dân, giữ vững độc lập của dân tộc. Người nhận thức sâu sắc rằng: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Tư tưởng ngoại giao của Người là hòa bình, mong muốn hòa bình, Người luôn chủ động nắm thời cơ để đàm phán, tránh chiến tranh. Người khẳng định “Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất thiết tha với độc lập, tự do và hòa bình…”[5]. Độc lập tự chủ, tự cường gắn với đoàn kết quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế là nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh Tư tưởng của Người, trí tuệ và đường lối quốc tế của Đảng, sức mạnh đoàn kết của toàn dân, kết hợp với sức mạnh thời đại, là cội nguồn tạo nên những thành tựu vẻ vang trên mặt trận đối ngoại.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đó là quyền tự do của các dân tộc được sống trong hòa bình, là tư tưởng hòa bình cho Việt Nam và hòa bình cho thế giới, chống chiến tranh xâm lược, chống can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, chống các chính sách cường quyền và áp đặt trong quan hệ quốc tế… Trong hoạt động ngoại giao, Hồ Chí Minh mềm dẻo, linh hoạt, nghệ thuật, tầm văn hóa cao nhưng rất quyết đoán, kiên trì chân lý, bảo vệ nguyên tắc, bảo vệ lợi ích quốc gia, tạo được sự cảm hóa và thuyết phục đối với mọi đối tượng nước ngoài. Hồ Chí Minh luôn coi ngoại giao là mặt mặt trận để tạo thành sức mạnh chiến thắng kẻ thù, tư duy biện chứng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” (lợi ích quốc gia dân tộc, độc lập, tự chủ là “dĩ bất biến”, phương pháp ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt là “ứng vạn biến”).
Trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng hiện nay, ngoại giao “cây tre Việt Nam” tiếp tục thực hiện sứ mệnh mới, góp phần tạo dựng và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; đồng thời linh hoạt, sáng tạo tìm ra phương cách mới để thúc đẩy hợp tác quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển kinh tế, nâng cao vị thế và gia tăng tiềm lực cho đất nước, sớm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam” – cơ sở thực tiễn
Trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam” là phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam và đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong lịch sử cũng như giai đoạn hiện nay.
Trong thời quân chủ, các triều đại phong kiến Việt Nam, tuy lúc mạnh yếu khác nhau, đều có ý thức đấu tranh, giành, giữ, củng cố, bảo vệ nền độc lập, tự chủ. Thậm chí, cả ngàn năm phong kiến phương Bắc thống trị với âm mưu “đồng hóa”, nhưng không thể dập tắt được ý chí độc lập tự chủ của người Việt Nam. Không những thế, các thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau vùng lên khởi nghĩa giành, giữ và bảo vệ độc lập tự chủ và còn chứng minh cho thế giới biết sức mạnh tiềm tàng, khẳng định tính bất diệt của ý chí độc lập tự chủ Việt Nam.
Từ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta gắn chặt với hoạt động đối ngoại, ngoại giao, kết hợp chặt chẽ với hoạt động quân sự. Với phương châm “đem đại nghĩa, thắng hung tàn”, “đánh vào lòng người, không đánh mà thắng”, thực hiện ngoại giao “công tâm”. Trong thời bình, hoạt động ngoại giao nhất là với các nước láng giềng luôn được coi trọng, nhằm giữ yên bờ cõi, tạo sự hòa hiếu với các quốc gia láng giềng. Truyền thống tốt đẹp của ngoại giao Việt Nam là hòa bình, hữu nghị, độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích quốc gia, bản sắc văn hóa, danh dự dân tộc. Đó là nền ngoại giao linh hoạt, kết hợp hài hòa giữa tính nguyên tắc và sách lược mềm dẻo, kết hợp chặt chẽ giữa mặt trận ngoại giao, mặt trận chính trị và mặt trận quân sự. Những tinh hoa của ngoại giao Việt Nam bắt nguồn từ chiều sâu bản sắc văn hóa của dân tộc; đồng thời, là sản phẩm của một quốc gia có vị trí địa chiến lược về chính trị, kinh tế, quân sự đặc biệt quan trọng của khu vực. Với tư tưởng ngoại giao chủ động, khôn khéo, linh hoạt, mềm dẻo, kết hợp “cương với nhu” nhưng vẫn giữ tính nguyên tắc đã giúp dân tộc trong lịch sử bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, mặc dù phải đương đầu với với những quốc gia lớn mạnh hơn ta nhiều lần. Trong lịch sử dân tộc, chúng ta đã kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao và giữ đúng “lễ” với “binh”, “biết mình, biết người”, vừa trịnh trọng, đúng nghi lễ cần có, cả lúc trước, sau và trong chiến tranh, với mục tiêu cao nhất của ngoại giao Việt Nam là giành và giữ độc lập dân tộc, nâng cao vị thế của đất nước.
Hơn 93 năm kể từ khi Đảng ta ra đời, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền ngoại giao cách mạng Việt Nam hiện đại đã trưởng thành và lớn mạnh cùng với những bước đường cách mạng của cả dân tộc, đóng góp xứng đáng vào những thành quả cách mạng của dân tộc. Trải qua các thời kỳ, càng luôn đề cao, khơi dậy ý chí độc lập, tự chủ, tự cường, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bất luận trong hoàn cảnh nào, khi ký kết văn bản đình chiến, Việt Nam luôn phải giữ được “các quyền dân tộc cơ bản”, đó là: độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Đặc biệt, bằng chính sách ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt, “vừa đánh, vừa đàm”: từ đàm phán, bảo vệ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, lúc mới thành lập sau cách mạng tháng 8 năm 1945; đàm phán ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954, góp phần thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đến đàm phán, ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973, tạo tiền đề giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, non sông thu về một mối.
Thực hiện đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng, trong hơn 36 năm đổi mới, trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã góp phần làm nên nhiều kết quả, thành tích rất tốt đẹp. Từ thế bị bao vây, cấm vận, chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thuận lợi cho công cuộc đổi mới, giải quyết các vấn đề tồn tại giữa Việt Nam với nhiều nước, tạo ra những đột phá trong quan hệ đối ngoại của nước ta, trong đó có giải pháp cho vấn đề Campuchia và bình thường hoá quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn như Trung Quốc, Hoa Kỳ, liên minh châu Âu, đổi mới quan hệ với các nước bạn bè truyền thống: “Tính ra, nước ta có quan hệ ngoại giao với 189 nước trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó 3 nước có “quan hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện”. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO, v.v…”[6] . Bản sắc ngoại giao "cây tre Việt Nam" đã được phát huy và thể hiện rõ trong từng hoạt động đối ngoại, nhất là hoạt động đối ngoại cấp cao cũng như trong ứng xử có lý, có tình với từng đối tác và tại từng cơ chế, diễn đàn đa phương. Qua đó, chúng ta đã khẳng định một Việt Nam bản lĩnh, chân thành, thủy chung, tin cậy và có trách nhiệm, đồng thời, giữ vững tổng thể cục diện đối ngoại thuận lợi cho phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh thế giới có nhiều yếu tố bất ổn, bất định.
Bằng trường phái ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo nhưng đầy bản lĩnh của “cây tre Việt Nam” đóng vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Vị thế và uy tín của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp đầy trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ trên thế giới. Chúng ta đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn và hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế quan trọng với tư cách Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, chủ tịch luân phiên ASEAN, chủ nhà hội nghị cấp cao ASEM, Hội nghị thượng đỉnh APEC, cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc,… Năm 2022, Việt Nam được quốc tế tín nhiệm bầu vào nhiều tổ chức quốc tế quan trọng như Phó Chủ tịch Đại hội đồng LHQ khóa 77, thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025, Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO nhiệm kỳ 2022 - 2026, …
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái chống phá đường lối đối ngoại của Đảng cũng như ngoại giao “Cây tre Việt Nam”
Thứ nhất, trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” phù hợp với cách mạng Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn, thể hiện sự khoa học, ý chí, niềm tin và mong muốn của nhân dân Việt Nam. Hơn ai hết trên thế giới này, người Việt Nam đã trải qua các cuộc chiến tranh với những mất mát và đau thương vô cùng to lớn. Vì thế, chúng ta hiểu được giá trị của hòa bình, của độc lập tự do cho dân tộc, tự lực, tự cường “đem sức ta mà giải phóng cho ta” trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Hơn nữa, Việt Nam luôn phấn đấu hết sức vì nền hòa bình cho toàn nhân loại, không có chủ trương xâm phạm chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào. Việt Nam chọn đứng về hòa bình, lẽ phải, công lý, luật pháp Quốc tế và hiến chương Liên Hợp Quốc. Thế nên, những luận điệu xuyên tạc rằng ngoại giao “cây tre Việt Nam” là “ngoại giao đu dây”, “không mang lại lợi ích cho nhân dân”,… là hoàn toàn phản khoa học, thể hiện tính phiến diện, thấy cây mà không thấy rừng.
Thứ hai, ngoại giao “cây tre Việt Nam” thể hiện sự tiến bộ, phù hợp với dòng chảy của thời đại. Trên thực tế, trong xu thế toàn cầu hóa, hợp tác và cạnh tranh diễn ra đan xen, mối quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới cũng có nhiều biến đổi khó lường; chỉ lợi ích quốc gia của mỗi dân tộc là “bất biến”, trường tồn, thế nên ngoại giao “cây tre Việt Nam” xác định “gốc” là độc lập dân tộc, lợi ích quốc gia là hoàn toàn phù hợp. Hơn nữa, “cây tre Việt Nam” đã khéo léo, uyển chuyển, linh hoạt để cân bằng và duy trì mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với các quốc gia trên thế giới, không bị rơi vào vòng xoáy của bất cứ một quốc gia nào khác, ngược lại còn khẳng định vị thế vốn có của mình, đồng thời nêu bật những giá trị của hòa bình và công lý. Thế sao các đối tượng phản động lại có thể nói ngoại giao “cây tre Việt Nam” là “lạc hậu”, “không tức thời”. Quả thật là phi lý hết sức.
Thứ ba, ngoại giao “cây tre Việt Nam” luôn khẳng định sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, là gốc vững cho cành tre lớn mạnh. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, “cây tre Việt Nam” luôn rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trong quan hệ đa phương, “cây tre Việt Nam” uyển chuyển, linh hoạt, sáng tạo, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi. Chưa bao giờ và chắc chắn sẽ không bao giờ có việc “ăn bám”, lợi dụng, phụ thuộc vào nước khác để có thể phát triển như các đối tượng phản động rêu rao.
Thứ tư, ngoại giao “cây tre Việt Nam” mang bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam, không cóp nhặt từ bất cứ nền ngoại giao nào trên thế giới. Trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” được kế thừa, đúc rút và phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống ngoại giao đất nước hơn 4 ngàn năm lịch sử, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, được lãnh đạo, sáng tập bởi lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại và được phát triển, hoàn thiện trong suốt quá trình cách mạng của đất nước. Điều đó thể hiện nét riêng có của dân tộc Việt Nam xuất phát từ mục tiêu “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân”. Hơn nữa, xét về nội hàm, đặc trưng của ngoại giao “cây tre Việt Nam” và “cây sậy Thái Lan” khác nhau hoàn toàn về bản chất, về mục tiêu và phương hướng. Cớ sao, các thế lực thù địch lại gán ghép rằng ngoại giao “cây tre Việt Nam” là “cóp nhặt”. Thật là không thể hiểu nổi.
Thứ năm, ngoại giao “cây tre Việt Nam” hoàn toàn nhất quán với quan điểm, đường lối đối nội, đối ngoại của Đảng, với chính sách quốc phòng 4 không, hoàn toàn không có “mâu thuẫn”. Trên tinh thần chủ động, tích cực triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, đảm bảo quyền lợi giữa các bên. Tuy nhiên, “cây tre Việt Nam” luôn chủ động và tỉnh táo trong các mối quan hệ, không để mơ hồ, mất cảnh giác, không bị áp đặt; hội nhập kinh tế quốc tế nhưn luôn gắn liền với bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền đất nước, giữ vững an ninh, quốc phòng quốc gia. Đó là sự thống nhất giữa “độc lập, tự chủ” với “đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ”. Đó cũng chính là vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Ngoài ra, chính sách quốc phòng 4 không của Việt Nam cũng thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là nhằm mục đích bảo vệ hòa bình, giữ gìn độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, hoàn toàn không có nghĩa là nước ta theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi.
Trong thời gian tới, chắc chắn các thế lực phản động sẽ tiếp tục các luận điệu xuyên tạc, tấn công trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” với những thủ đoạn tinh vi và nham hiểm hơn. Do vậy, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cần nâng cao nhận thức, phát huy mạnh mẽ bản sắc ngoại giao "cây tre Việt Nam" trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Tất cả những thành tựu về hoạt động đối ngoại là minh chứng rõ ràng nhất củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước cũng như đập tan mọi luận điệu xuyên tạc. Ngoại giao “cây tre Việt Nam” sẽ luôn đồng hành cùng dân tộc trên con đường xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu./.
Tài liệu tham khảo
[1]. PGS,TS Nguyễn Bá Dương. Kiên định và sáng tạo – Bí quyết thành công của quá trình đổi mới ở Việt Nam. NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội – 2012.
[2]. PGS,TS Vũ Trọng Lâm. Văn hóa đối ngoại Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. NXB Chính trị Quốc gia sự thật. Hà Nội – 2019.
[3]. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia sự thật. Hà Nội – 2021.
[1] Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ngày 14/12/2021.
[2] Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ngày 14/12/2021.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, tr.161-162.
[4] C.Mác và Ph.Ăng ghen, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr.611.
[5] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia, trang 173.
[6] Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam. NXB Chính trị quốc gia sự thật. Hà Nội 2022. Trang 184-185.
Nhận xét
Đăng nhận xét